Di chúc viết tay do chính người để lại di chúc viết ra nhưng không ký trong từng trang hoặc quên không đánh số thứ tự có hợp pháp không?
(Hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa)
Quy định của pháp luật nước ta về nội dung di chúc bằng văn bản qua các thời kỳ khác nhau.
- Điều 13 Pháp lệnh Thừa kế quy định về nội dung bản di chúc:
“1- Trong bản di chúc phải ghi rõ: Ngày, tháng, năm lập di chúc; họ, tên và nơi thường trú của người lập di chúc; họ, tên người được hưởng di sản; tên cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; tài sản, quyền về tài sản để lại cho người, cơ quan tổ chức được hưởng; nơi có tài sản đó. Nếu người lập di chúc giao nghĩa vụ cho người thừa kế thì phải nêu rõ là giao cho ai, nghĩa vụ gì.
2- Trong bản di chúc phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.”
- Khoản 2 Điều 656 BLDS năm 1995, khoản 3 Điều 653 BLDS năm 2005 đều có quy định: “Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.”
- Khoản 3 Điều 631 BLDS năm 2015 quy định: “Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc".
Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.”
Như vậy, quy định di chúc phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ từng trang của người lập di chúc có hiệu lực từ khi BLDS năm 1995 có hiệu lực (ngày 01/7/1996). Xét về quy định phải được đánh số thứ tự và ký hoặc điểm chỉ từng trang là bắt buộc thì di chúc nào không tuân theo quy định này là di chúc không hợp pháp.
Lưu ý:
- Thực tiễn cho thấy, trong trường hợp di chúc được lập trong thời kỳ quy định phải được đánh số thứ tự và ký hoặc điểm chỉ từng trang là bắt buộc nhưng di chúc đó không tuân thủ quy định này thì di chúc đó vẫn có giá trị để xác định chia di sản thừa kế khi tất cả các thừa kế đồng ý đều thừa nhận di chúc này (di chúc đó vẫn có hiệu lực).
- Theo quy định của BLDS năm 2015 thì có di chúc quy định di chúc phải được đánh só thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ từng trang của người lập di chúc theo quy định tại Điều 631 (Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng – Điều 633, Di chúc bằng văn bản có người làm chứng – Điều 634) nhưng cũng có di chúc không quy địng di chúc phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ từng trang của người lập di chúc theo quy định tại Điều 631 (Lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc chứng thực – Điều 638). Do vậy, để xác định di chúc có hợp pháp hay không hợp pháp thì phải xác định di chúc đó thuộc loại di chúc nào và quy định của pháp luật đối với từng loại di chúc đó.
Chú ý: di chúc có thể hợp pháp một phần khi phần đó đúng quy định của pháp luật.
Nếu có thắc mắc về nội dung bài viết hay cần hỗ trợ pháp luật, vui lòng liên hệ Công ty Luật Thiện Lý qua số điện thoại: 02703.827.728 – 093.999.6008 hoặc thư điện tử: info@luatthienly.com để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời. Xin cảm ơn!