Xin chào Luật sư, về vấn đề người khởi kiện có đơn khởi kiện tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng không cung cấp được bản chính hoặc bản sao hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất kèm theo đơn khởi kiện. Trong trường hợp này, người khởi kiện có bắt buộc phải cung cấp hợp đồng này kèm theo đơn khởi kiện hay không? Nếu họ không cung cấp được thì Tòa án có trả lại đơn khởi kiện hay không?
(Hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa)
Trả lời: Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Thiện Lý. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:
Theo Khoản 5 Điều 189 Bộ luật Tố tùng dân sự năm 2015 quy định “Kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Trường hợp vì lý do khách quan mà ngươi khởi kiện không thể nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì họ phải nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Người khởi kiện bổ sung hoặc giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ khác theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án”.
Khoản 1 Điều 96 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định “Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ của Tòa án. Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 của Bộ luật này để giải quyết vụ việc dân sự”.
Về nguyên tắc, khi gửi đơn khởi kiện cho Tòa án, người khởi kiện phải gửi kèm theo tài liệu, chứng cứ để chứng minh họ là người có quyền khởi kiện và những yêu cầu của họ là có căn cứ và hợp pháp. Do đó, trong trường hợp người khởi kiện không cung cấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất kèm theo đơn khởi kiện thì Thẩm phán phải yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Nếu đương sự vẫn không giao nộp, cần thiết yêu cầu đương sự phải có văn bản tường trình, giải thích lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để Tòa án đánh giá có thuộc “vì lý do khách quan” hay không.
+ Trường hợp 1: nếu vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì họ chỉ phải nộp tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì họ chỉ phải nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Người khởi kiện bổ sung hoặc giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ khác theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án (Khoản 5 Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, đương sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó. Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó tòa án không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp, trình bài tại phiên tòa sơ thẩm hoặc các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ việc dân sự (Khoản 4 Điều 96 Bộ luật dân sự năm 2015).
+ Trường hợp 2: Nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để giải quyết vụ việc dân sự (Khoản 1 Điều 96 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015).
Tuy nhiên, việc đương sự không giao nộp tài liệu, chứng cứ không phải là một trong những căn cứ để Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện theo Khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Nếu có thắc mắc về nội dung bài viết hay cần hỗ trợ pháp luật, vui lòng liên hệ Công ty Luật Thiện Lý qua số điện thoại: 02703.827728 – 093.999.6008 hoặc thư điện tử: info@luatthienly.com để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời. Xin cảm ơn!